Đề xuất chính sách tín dụng mới đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn

Đăng ngày 06 - 07 - 2022
Lượt xem: 1
100%

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến đối với dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn và Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 08/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn.

 

Trên 3 triệu lượt hộ gia đình được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi

Theo thống kê của Bộ Tài chính về tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg, tính đến hết ngày 31/12/2021, tổng doanh số cho vay đạt trên 84 nghìn tỷ đồng; dư nợ chương trình trên 27 nghìn tỷ đồng; dư nợ bình quân khoảng 39 triệu đồng/hộ; nợ quá hạn chiếm 0,21% dư nợ; nợ khoanh chiếm 0,37% dư nợ.

Trong khi đó về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn theo Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg: Đến ngày 31/12/2021, tổng doanh số cho vay đạt trên 1,6 nghìn tỷ đồng; dư nợ chương trình trên 180 tỷ đồng; dư nợ bình quân 46 triệu đồng/khách hàng; nợ quá hạn chiếm 1,08% dư nợ; nợ khoanh chiếm 0,52% dư nợ.

Các chương trình trên đã giúp trên 3 triệu lượt hộ gia đình sản xuất kinh doanh, thương nhân vùng khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, hoạt động thương mại. Vốn cho vay ưu đãi được triển khai cho vay đến 100% xã thuộc khu vực khó khăn trong cả nước, đã khơi dậy được tiềm năng phát triển kinh tế của vùng, nhân dân có điều kiện phát triển những ngành nghề thế mạnh của địa phương, góp phần tạo việc làm, cải thiện thu nhập, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Ảnh minh họa: Nguồn Internet

Tuy nhiên trong quá trình thực thi chính sách hiện nảy sinh một số vấn đề khó khăn. Cụ thể về xác định vùng khó khăn được thụ hưởng chính sách: Tại Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg và Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg quy định vùng khó khăn được thụ hưởng chính sách bao gồm các xã trong Danh mục ban hành kèm theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đến nay, Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn đã nhiều lần được cập nhật, sửa đổi. Do đó, quy định danh mục theo một quyết định cụ thể nêu trên chưa bám sát với thực tế thay đổi.

Bên cạnh đó có trường hợp một số thôn không thuộc danh mục các xã vùng khó khăn, tuy nhiên lại thuộc danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc ban hành cho từng giai đoạn. Do đó, việc quy định “vùng khó khăn” chỉ bao gồm các đơn vị hành chính cấp xã đã dẫn đến trường hợp các thôn đặc biệt khó khăn nhưng lại không được thụ hưởng chính sách.

Một bất cập khác là về đối tượng được vay vốn của chương trình tín dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg. Cụ thể theo quy định đối tượng hiện nay theo hướng “các hộ gia đình không thuộc diện hộ nghèo” để tránh việc các hộ gia đình đã được vay vốn sản xuất kinh doanh theo chương trình tín dụng hộ nghèo tiếp tục được vay vốn trùng lắp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay có nhiều chương trình tín dụng cho hộ gia đình để sản xuất kinh doanh khác như chương trình tín dụng cho hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, chương trình cho vay giải quyết việc làm. Do đó, để tránh việc cho vay trùng lắp cùng một khách hàng giữa các chương trình thì cần phải bổ sung làm rõ trong quy định đối tượng được vay vốn.

Bên cạnh đó về mức cho vay tối đa: Hiện nay, mức cho vay tối đa đối với hộ sản xuất kinh doanh và thương nhân là cá nhân không thực hiện chế độ kế toán và nộp thuế khoán là 50 triệu đồng (đã được nâng mức vay từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng vào năm 2016). Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), mức cho vay hiện tại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn của hộ sản xuất kinh doanh và thương nhân hoạt động thương mại vùng khó khăn.

Ngoài ra, về lãi suất cho vay các chương trình tín dụng vùng khó khăn đã được điều chỉnh giảm xuống mức 0,8%/tháng (theo Quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 09/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ) và xuống mức 0,75%/tháng (theo Quyết định số 750/QĐ-TTg ngày 01/6/2015). Tuy nhiên, các văn bản điều chỉnh lãi suất nêu trên là văn bản chỉ đạo điều hành của Thủ tướng Chính phủ. Do đó, để đảm bảo căn cứ pháp lý thì vẫn cần thiết sửa đổi quy định về lãi suất cho vay của Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg.

Đề xuất lãi suất cho vay bằng 0,75%/tháng

Mục đích của việc xây dựng Dự thảo Quyết định nhằm xử lý, khắc phục các tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện các chương trình tín dụng vùng khó khăn để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu của các đối tượng thụ hưởng, vừa góp phần hạn chế, đẩy lùi “tín dụng đen”, hỗ trợ người vay thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới.

Theo đó Dự thảo Quyết định đã bổ sung một số nội dung mới như bổ sung quy định về vùng khó khăn theo hướng: “Vùng khó khăn được thụ hưởng chính sách tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh quy định tại Quyết định này bao gồm: (a) Các xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã) quy định trong Danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn do Thủ tướng Chính phủ ban hành cho từng giai đoạn; (b) Các thôn không thuộc các xã quy định tại điểm a khoản này nhưng thuộc danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo quy định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc ban hành cho từng giai đoạn…”

Bên cạnh đó sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng vay vốn của chương trình tín dụng đối với hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn (Điều 3 Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg) theo hướng: “Các hộ gia đình theo quy định của Bộ Luật Dân sự (bao gồm cả hộ gia đình làm kinh tế trang trại) không thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và chưa được vay vốn chương trình cho vay giải quyết việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội, thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm (sau đây gọi chung là người vay vốn). Người đại diện theo ủy quyền bằng văn bản của các thành viên trong hộ gia đình chịu trách nhiệm giao dịch với Ngân hàng Chính sách xã hội trong quan hệ vay vốn, trả nợ, trả lãi”.

Mặt khác Dự thảo sửa đổi, bổ sung quy định về mức vốn cho vay tối đa (Điều 7 Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg và Điều 8 Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg) theo hướng:

Đối với sửa đổi Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg: “Mức vốn cho vay đối với một hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tối đa là 100 triệu đồng. Trong một số trường hợp cụ thể, mức vốn vay của một hộ có thể trên 100 triệu đồng, giao Ngân hàng Chính sách xã hội căn cứ vào khả năng nguồn vốn, nhu cầu đầu tư và khả năng trả nợ của hộ sản xuất, kinh doanh, để quy định mức cho vay cụ thể, nhưng tối đa không quá 200 triệu đồng”.

Đối với sửa đổi Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg: “Mức vốn cho vay thương nhân là cá nhân không thực hiện chế độ kế toán theo quy định pháp luật về chế độ kế toán cho các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và nộp thuế khoán theo quy định của cơ quan thuế tối đa là 100 triệu đồng. Mức vốn cho vay thương nhân là cá nhân thực hiện chế độ kế toán theo quy định pháp luật về chế độ kế toán cho các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và kê khai nộp các loại thuế theo quy định của pháp luật tối đa là 200 triệu đồng. Mức vốn cho vay thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp tối đa là 1 tỷ đồng”.

Về quy định lãi suất cho vay (Điều 8 Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg), theo quy định hiện nay: “Lãi suất cho vay bằng 0,9%/tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ Tài chính.”

Dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung theo hướng: “Lãi suất cho vay bằng 0,75%/tháng. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ trên cơ sở đề xuất của Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội. Lãi suất cho vay đảm bảo nguyên tắc bù đắp lãi suất bình quân các nguồn vốn và phí quản lý đối với Chương trình này. Trong đó, lãi suất bình quân các nguồn vốn và phí quản lý xác định theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về quy chế quản lý tài chính đối với Ngân hàng Chính sách xã hội.”

Tin liên quan

Tổ chức Hội nghị sơ kết 06 tháng đầu năm 2024 và trao đổi kinh nghiệp giữa các Sở Tài chính thuộc...(07/08/2024 11:21 SA)

Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 quy định về kiểm soát...(16/07/2024 4:27 CH)

Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI tại tỉnh Ninh Thuận dự kiến diễn ra từ ngày 27- 29/9 năm...(16/07/2024 11:29 SA)

Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, miễn, quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ...(16/07/2024 11:26 SA)

Tổ chức Ngày Văn hóa, Du lịch Ninh Thuận tại Đà Nẵng năm 2024. Chủ đề: “Ninh Thuận - Miền đất hội...(12/07/2024 3:15 CH)

Tin mới nhất

Tổ chức Hội nghị sơ kết 06 tháng đầu năm 2024 và trao đổi kinh nghiệp giữa các Sở Tài chính thuộc...(07/08/2024 11:21 SA)

Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 quy định về kiểm soát...(16/07/2024 4:27 CH)

Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm lần thứ VI tại tỉnh Ninh Thuận dự kiến diễn ra từ ngày 27- 29/9 năm...(16/07/2024 11:29 SA)

Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, miễn, quản lý và sử dụng phí khai thác, sử dụng thông tin dữ...(16/07/2024 11:26 SA)

Tổ chức Ngày Văn hóa, Du lịch Ninh Thuận tại Đà Nẵng năm 2024. Chủ đề: “Ninh Thuận - Miền đất hội...(12/07/2024 3:15 CH)

16 người đang online
°